Ứng dụng Antimon

Antimon được sử dụng ngày càng gia tăng trong công nghiệp bán dẫn để sản xuất các điốt, các thiết bị phát hiện bằng tia hồng ngoại và các thiết bị dùng hiệu ứng Hall. Ở dạng hợp kim, nó tăng mạnh độ cứng và sức bền cơ học của chì. Ứng dụng quan trọng nhất của antimon là tác nhân làm cứng trong chì để làm các loại ắc quy. Các ứng dụng bao gồm:

Các hợp chất của antimon trong dạng các ôxít, sulfua, antimonat natri, triclorua antimon được dùng làm các vật liệu chống cháy, men gốm, thủy tinh, sơn, sứ. Triôxít antimon là hợp chất quan trọng nhất của antimon và sử dụng chủ yếu trong các vật liệu ngăn lửa. Các ứng dụng ngăn lửa bao gồm các thị trường như quần áo và đồ chơi trẻ em, các lớp bọc ghế ngồi trong ô tô và máy bay. Nó cũng được dùng trong công nghiệp sản xuất composit sợi thủy tinh như là phụ gia cho nhựa polyeste cho các mặt hàng như lớp che bọc động cơ máy bay hạng nhẹ. Nhựa này sẽ bắt cháy khi có lửa nhưng nõ sẽ bị dập tắt ngay khi lửa bị loại bỏ. Sulfua antimon là một trong các thành phần của diêm an toàn.

Trong thập niên 1950, các hạt nhỏ hợp kim chì-antimon được sử dụng làm cực phát và cực thu cho các tranzito biên hợp kim kiểu NPN.

Sulfua tự nhiên của antimon, gọi là stibnit, đã được biết đến và sử dụng từ thời kỳ cổ đại như là thuốcmỹ phẩm. Stibnit vẫn còn được sử dụng ở một vài quốc gia đang phát triển như là thuốc. Antimon đã từng được sử dụng để điều trị bệnh sán màng. Antimon tự gắn nó với các nguyên tử lưu huỳnh trong một vài loại enzym nhất định mà cả cơ thể người lẫn sinh vật ký sinh đều cần. Một lượng nhỏ có thể giết chết sinh vật ký sinh mà không gây ra các thương tổn cho bệnh nhân. Antimon và các hợp chất của nó được sử dụng trong một vài loại thuốc thú y như Anthiomalin hay thiomalat antimon liti, được dùng như là tác nhân điều hòa và làm mượt lông ở động vật nhai lại (trâu, bò). Antimon có hiệu ứng nuôi và điều hòa các mô keratin (sừng) hóa, ít nhất là ở động vật. Thuốc gây nôn Tartar là một loại thuốc có chứa antimon được dùng như là thuốc chống sán màng. Các diều trị chủ yếu có sự tham gia của antimon gọi là thuốc antimon.

Các loại dược phẩm dựa trên antimon như Allopurinol, Meglumin, cũng được coi là các loại thuốc cần dùng để điều trị sốt ruồi cát (do sinh vật nguyên sinh chi Leishmania gây ra) ở gia súc. Không may, mặc dù có chỉ dẫn điều trị thấp, nhưng thuốc này thẩm thấu kém qua xương ống, nơi mà một số sinh vật gây bệnh Leishmania sống, và vì thế việc chữa trị bệnh – đặc biệt khi ở nội tạng – là rất khó.

Đồng tiền làm từ antimon do tỉnh Quý Châu (Trung Quốc) phát hành năm 1931. Loại tiền này không phổ biến, do quá mềm và nhanh mòn khi lưu thông. Sau lần phát hành đầu tiên người ta không sản xuất nó nữa.[3]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Antimon http://www.lfpress.com/cgi-bin/publish.cgi?p=12023... http://www-d0.fnal.gov/hardware/cal/lvps_info/engi... http://www.nilim.go.jp/lab/bcg/siryou/tnn/tnn0264p... //dx.doi.org/10.1086%2F346926 http://links.jstor.org/sici?sici=0003-0147(188801)... http://links.jstor.org/sici?sici=0021-1753(193502)... http://links.jstor.org/sici?sici=1062-0516(191807)... //www.jstor.org/stable/225136 http://www.rsc.org/delivery/_ArticleLinking/Displa... http://www.tclayton.demon.co.uk/metal.html